越南欽廉艾人的民族英雄黃福盛(黃亞生)
发布时间:2025-02-08  点击次数:319


艾族(欽廉艾)是越南54個民族之一,擁有自己獨特的文化特徵,但由於戰亂時期,艾族後裔經常與中國人生活在一起,因此他們也懂得說粵語(母語艾話)。

黃亞生先生,本名福盛,俗稱亞生,祖籍廣東省欽州防城縣,1902319日出生於海寧省河內縣新邁(現廣寧省海河縣)。

1914年考入光安軍事學院,1920年畢業並在法國軍隊服役;1931年晉升為中士。當時,士兵的最高軍銜是中士,即高級士官。要成為少尉,必須從軍官學校畢業。1932年,他進入法國弗雷瑞斯軍官學校桑西爾分校學習,並於1935年畢業,獲少尉軍銜。 1940年晉升為中尉(1945年)、上尉(1949年)、少校(1951年)、上校(1954年)。1956年,已故總統吳廷琰(親美派)懷疑他親法,被迫提前退休。

黃亞生上校不僅是海寧儂族自治區的創始人(1947年至1953年),也是越南共和國陸軍第3野戰師(1955年)的創始人,該師是第5步兵師的前身(1959年)。他也因在1954年成功帶領3萬多儂族人民從自治區南遷,將潼毛蠻荒之地改造為南遷儂族人民的安居樂業而為人們所熟知。他也是北越難民互助協會(1966年)的創始人。他還是一位為南方所有少數民族權利而奮鬥的領袖,包括儂族,並於1967年至1975年當選為越南共和國制憲會議參議員。

關於海甯農族自治區的成立,筆者所見過的現在居住在法國(圖盧茲)、美國、中國、越南等世界各地的前儂地區軍人都一致認為,黃亞生先生巧妙地利用了天時、地利、人和的因素。趁著日本向盟軍投降的有利時機,他率領大軍從中國廣東防城乘帆船沿紅河向地形有利於收復芒街的姑蘇島和萬和地區進發。這艘忠孝帆船後來被用作收復芒街和海甯農族自治區成立的徽章和象徵。得益于有利的地形,黃亞生的軍隊每戰皆勝。由於時局混亂,人民生活困苦,恰逢一支軍隊來救亡,途中,數百名青年男子加入了這支勝利大軍。由於這種人道主義因素,軍隊在黃亞生上尉的率領下,很快於19468月至19477月進入芒街。1946714日,黃亞生上尉代表海甯軍事委員會宣佈成立Territoire Autonome Nung,即法屬印度支那北部海寧儂族自治區,由總督埃米爾·博拉爾特主持。

海甯儂族自治區領導人為黃亞生上尉,副領袖是林光遠中尉,他佔領了芒街,將艾語與法語、漢語和越南語並列為一種獨立語言,用於檔和日常交流。

自治區山清水秀,沙灘廣闊,轄8個縣1個島嶼:芒街縣(首府)、河內縣、潭河縣、先安縣、平遼縣(包括黃毛縣,經通昌、大祿至中國塔文大山)、丁立縣、巴乩縣、萬和縣和姑蘇島。自治區設有工商部、農漁業部、教育部、司法部、國防部。自治區面積4500平方公里。自治區人民生活安寧、富足。除了上述各區、島嶼的名稱以外,儂族人民還經常提到自治區的地名,例如:Na SloPan PatMa Xe NeuSlạn CáiTien Yen)、Hoong HoiHon Gai)、Kham PlaCam Pha)、Tong LuiDong Rui)、Choc Plai SanTan MaiThan Plún LengPac Phong SenhVoong Mo LengTai Voong Mo LengTong MoHoanh Mo)、Ma Thau San...

儂族自治區的人口,除少數京族人外,大部分是長期居住在北侖河兩岸的民族(青佬族、魏族、山池族、岱族、托族、山由族、苗族和華族)。讀到這裡,有人要問了:為什麼叫儂族自治區,但是儂族自治區內的各民族中,卻沒有儂族呢?要回答這個問題,筆者必須開個記號儂族或儂族是用來指代居住在儂族自治區的各民族的詞語,就像傣族是用來指代居住在泰族自治區的泰族、岱族、托族、苗族……少數民族的詞語一樣;或者換句話說,就像越南人用來指代京族和少數民族(占族、尚族、苗族、文僑族、岱族、和族……)的詞語一樣。(實際上,海寧儂族主要是欽廉艾人,即客家人。)

帶領海甯自治區儂族人民移居南方的功業始於1954年。黃亞生中校率領全體軍人和公務員、他們的親屬以及那些想跟隨他去南方的人。最初,這群人暫時定居在Ba NgoiCam Ranh),後來為了生活用水方便,這群移民移居到Ma O河(Luy河,源於Di Linh山,流經Ca Long,向東流向Ca Giay湖,從那裡流向Ba GheTai Slám Cau地區,流向Cau BomMao河)然後流入大海)附近居住,主流繼續流下,蜿蜒流經Luy河、Suoi NhuomLuong SonXuan Quang,流經Cho Lau橋,流向Phan Ri然後流入大海)

潼毛鎮由此成立,是海甯區的首府,區路位於平順省潼毛站附近。儂族人民艱苦奮鬥,開墾土地,建立村莊。儂族人民歷經艱辛,把這片神聖的森林和毒水變成了肥沃的田地。

毛河也是黃亞生上校率領第 6 儂營與第 32677172 75 營一起組建第 6 野戰師的地方(1956 8 1日)。第6野戰師曾被簡稱為第 41 野戰師。1955111日,第41野戰師改名為第3野戰師,師部最初設在新邁,這是一處沿著孝道街(現統一街)軍區延伸的軍事訓練場,最重要的聚集點就在潼毛鎮兩條主要街道孝道和統一街(現阮文卓街)的交匯處。1954年左右或更早出生的潼毛人,大概潛意識裡還縈繞著白天隆隆響起的喇叭聲;入夜時分,不斷敲擊木魚的聲音,偶爾夾雜著觀音寺的鑼聲,回蕩在當時安靜的潼毛村。

1966年,他被選為北越上游互助協會主席。1967年,當選為越南共和國制憲會議參議院議員,並被選為參議院少數民族團結聯盟主席。在這一選舉職位上,黃亞生先生為來自越南南部和北部高地的少數民族爭取了許多權利,尤其是在教育和培訓方面。許多軍官、大學生和儂族學生因少數民族規定而享有優惠權利。很多潼毛學校早期的天真孩子,以及越農學校、德英學校、潼毛 A 學校、潼毛B 學校和多明學校(後來的海寧學校)的學生都成為了南越軍隊的軍官。

197552日,他與家人乘坐長山號逃難途中不幸身亡,並被海葬。

Vong A Sang 先生與一位名叫 Lieu 的女子結婚,她來自平遼縣,育有 11 個孩子:8 個兒子和 3 個女兒。

黃福盛先生(黃亞生)一生為人民服務,對儂族人民功不可沒。他書寫了儂族從海寧儂自治區時期直到入沱江時期的輝煌歷史。

ps:本文中的儂族(儂族自治區)並非現在北方的儂族。感謝 Vong Ca Phung 貢獻本文。


越南山涯族嘅民族英雄-黃福盛(黃亞生)

Dân tộc Ngái là 1 trong 54 dân tộc tại VN, có bản sắc văn hoá riêng biệt, nhưng do thời thế loạn lạc con cháu của người Ngái thường sống chung với người Hoa nên cũng biết nói thêm tiếng Quảng Đông

Dân tộc Ngái xưa kia có trang phục, văn tự và chữ viết riêng. Dưới đây là tư liệu bài viết tóm tắc về Ông Vòng A Sáng vị anh hùng dân tộc của người Ngái mà ad sưu tầm được, để mọi người cùng xem để hiểu hơn về dân tộc Ngái đã bị lịch sử lãng quên, cái này không bàn chính trị nha các bạn, chỉ là úp mọi người trao đổi kiến thức thôi

Ông Vòng A Sáng, tên chữ là Phúc Thịnh (福盛), thường gọi A Sáng (亞生), sinh ngày 19 tháng 3 năm 1902 tại Tấn Mài, huyện Hà Cối, tỉnh Hải Ninh (nay là huyện Hải Hà, Tỉnh Quảng Ninh)

Ông nhập học trường Thiếu Sinh Quân Núi Đèo (Quảng Yên) năm 1914, tốt nghiệp năm 1920 và phục vụ trong quân đội Pháp; thăng cấp Thượng Sĩ năm 1931. Thời đó quân sĩ chỉ thăng tới Thượng Sĩ là cao nhất, thuộc hàng hạ sĩ quan cao cấp, muốn lên Thiếu Uý phải tốt nghiệp trường sĩ quan. Năm 1932, Ông nhập học trường sĩ quan Fréjus, phân hiệu Sancier tại Pháp, tốt nghiệp năm 1935 với cấp bậc Thiếu Uý. Ông được thăng cấp Trung Uý năm 1940, Đại Uý (1945), Thiếu Tá (1949), Trung Tá (1951) và Đại Tá (1954). Năm 1956 bị cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm (thân Mỹ) nghi ngờ Ông thân Pháp nên ép Ông giải ngũ trước hạn tuổi

Đại Tá Vòng A Sáng được biết không những như là người sáng lập ra Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh (1947-1953), mà lại còn như sáng lập một sư đoàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà Sư Đoàn 3 Dã Chiến, (1955), tiền thân của Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1959). Ông cũng còn được biết đến như là người đã có công trong việc đưa hơn 30 ngàn người Nùng di cư từ Khu Tự Trị vào Nam năm 1954, khai khẩn vùng đất hoang vu Sông Mao thành nơi an cư lạc nghiệp cho dân di cư. Ông cũng là người sáng lập Hội Tương Tế Thượng Du Bắc Việt Di Cư (1966). Ông còn được biết như là một lãnh tụ đã đấu tranh cho quyền lợi cho mọi dân tộc thiểu số miền Nam Việt Nam trong đó có người Nùng khi trúng cử Nghị Sĩ Thượng Nghị Viện Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hoà 1967-1975).

Về sự nghiệp sáng lập Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh, những cựu quân nhân khu Nùng còn sống rải rác khắp thế giới như ở Pháp (Toulouse), Mỹ, Trung, Việt mà người viết đã gặp đều cho rằng Ông Vòng-A-Sáng đã khôn khéo vận dụng đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Nhân lúc sau khi Nhật đầu hàng quân đội đồng minh, Ông dẫn đại quân từ Phòng Thành, Quảng Tây (Trung Quốc) theo giòng sông Hồng đi thuyền buồm viễn chinh về đóng tại đảo Cô Tô và vùng Vạn Hoa, nơi có địa thế thuận lợi cho việc tái chiếm Móng Cái. Cánh thuyền buồm Trung Hiếu (忠孝) này ngày sau được dùng làm huy hiệu và biểu tượng việc tái chiếm Móng cái và sáng lập Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh. Nhờ địa thế thuận lợi, đại quân Vòng A Sáng đánh đâu thắng đó. Do thời cuộc nhiễu nhương, dân lành khổ sở, nay có đoàn quân về giải cứu nên trên đường tiến quân có hàng trăm tráng niên gia nhập đoàn quân bách thắng. Nhờ thêm yếu tố nhân hoà này đoàn quân dưới sự lãnh đạo của Đại Uý Vòng A Sáng chẳng bao lâu, chỉ từ tháng 8/1946 đến tháng 7/1947, đã tiến vào Móng cái. Ngày 14/7/1946, Đại Uý Vòng A Sáng thay mặt cho Hội Đồng Quân Chính Hải Ninh tuyên bố thành lập Territoire Autonome Nung tức Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh  Bắc Bộ, Đông Dương thuộc Pháp, dưới sự bảo trợ của Toàn Quyền Émile Bollaert.

Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh có Thủ Lĩnh là Đại Uý Vòng A Sáng; Phó Thủ Lĩnh là Trung Uý Linh Quang Viên lấy Móng Cái làm thủ phủ, tiếng Ngái làm ngôn ngữ riêng bên cạnh tiếng Pháp, Trung, và Việt được dùng trong văn thư và giao tế thường nhật .

Khu Tự Trị là một vùng đất sơn thanh thuỷ tú, bãi biển mênh mông gồm có 8 huyện và 1 hải đảo: Moncay (thủ phủ), Hà Cối, Đầm Hà, Tiên Yên, Bình Liêu (bao gồm Hoành Mô kéo dài qua Tồng Chống, Tài Lốc vào đến Thập Vạn Đại Sơn, Trung Quốc) , Định Lập, Ba Chẽ, Vạn Hoa và đảo Cô Tô. Khu Tự Trị có các Bộ Công Thương Nghiệp, Nông Ngư Nghiệp, Giáo Dục, Tư Pháp, Quốc Phòng. Diện tích Khu Tự Trị là 4.500km vuông. Dân chúng Khu Tự Trị sống trong cảnh an cư lạc nghiệp. Ngoài tên các huyện, đảo ở trên người Nùng còn hay nhắc đến các địa danh của Khu Tự Trị như: Nà Slố, Pản Pạt, Mả Xề Nều, SlắnCái (Tiên Yên), Hóong Hổi (Hòn Gai), Khẳm Plả (Cẩm Phả), Tồng Lui (Đồng Rui), Chốc Plài Sán, Tắn Mài, Thán Plún Lẻng, Pắc Phống Sềnh, Vòong Mố Lẻng, Tài Vòong Mố Lẻng, Tồng Mố (Hoành Mô), Mả Thàu Sán...

Đặc sắc nhất là Ban Tu Thư Bộ Giáo Dục Khu Tự Trị đã cho biên soạn một cuốn tự điển chữ Ngái 'Nổng Vủn Slu Tèn' (儂文字典) dùng mẫu tự La Tinh phiên âm đọc theo phát âm chữ Việt giọng Bắc, nguyên âm hay phụ âm (đơn hay kép) nào mà không có trong chữ Việt thì sáng chế ra (như 'slu' trong slu tèn ở trên, hay 'plủi lồ' nghĩa là ông béo) và nhiều cuốn sách tập đọc-học thuộc lòng chữ Ngái. Hồi nhỏ, người viết vẫn ê a quyển 'ngải tì thốc Ngái sú' (tạm dịch: chúng ta học tiếng Ngái), trong đó có nhiều chuyện vui cho nhi đồng như 'Slám thẻo chú chày (ba con lợn con), 'Á Zốc cai thai hoi' (Cái hại của thằng Zốc), 'Liòong chạc slệt mả cô tsoong' (hai con rệp đi kiện) v.v...

Dân cư Khu Tự Trị Nùng ngoài một số ít người Kinh, đa số là người (Tsín Lẩu, Ngái, Sán Chỉ, Tày, Thổ, Sán Dìu, Mèo, Hoa) sinh sống lâu đời dọc 2 bên bờ sông Bắc Luân. Đọc tới đây ắt có người đặt câu hỏi rằng:” Tại sao gọi là Khu Tự Trụ Nùng mà không thấy có người Nùng trong số những dân tộc sinh sống tại Khu Tự Trị Nùng? Để trả lời câu hỏi này, người viết phải mở một dấu "Người Nùng hay dân tộc Nùng là từ dùng để gọi chung các dân tộc sinh sống trong Khu Tự Trị Nùng, cũng như Tai là từ dùng để chỉ người Thái,Tày, Thổ, Mèo … dân tộc thiểu số sinh sống trong Khu Tự Trị Thái; hay nói cách khác cũng như từ người Việt Nam dùng để gọi chung dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số (Chàm, Thượng, H'Mong, Vân Kiều, Tày, Hoa ...) cùng sống trên mảnh đất hình cong chữ S vậy.

Công lao đưa người Nùng Khu Tự Trị Hải Ninh di cư vào Nam Việt bắt đầu 1954 Trung-Tá Vòng-A-Sáng thống lĩnh toàn thể Quân Cán chính cùng quyến thuộc và những người muốn đi theo vào Nam. Lúc đầu, đoàn người tạm cư tại Ba Ngòi (Cam Ranh) sau để tiện có nước sinh hoạt đoàn người di cư kéo về sống tập trung quanh sông Ma Ó  (tức sông Luỹ, một con sông có nguồn từ trên núi Di Linh đi xuống qua Cà Long, một nhánh chạy về hướng Đông đổ vào hồ Cà Giây, các ngòi từ đó tản ra các vùng Bá Ghe, Tài Slám Cáu xuống Cầu Bom (Sông Mao) rồi ra biển, giòng chính tiếp tục chảy xuống vòng lượn qua Sông Luỹ, Suối Nhuôm, Lương Sơn, Xuân Quang, chảy qua dưới cầu Chợ Lầu, đổ xuống Phan Rí rồi ra biển).

Thị Trấn Sông Mao từ đấy mà thành hình và là thủ phủ của quận Hải Ninh với Quận Đường đặt gần ga Sông Mao, thuộc tỉnh Bình Thuận. Người Nùng ra công khẩn hoang lập ấp, biền tri thủ túc. Qua bao gian khổ, người Nùng đã biến nơi rừng thiêng nước độc này thành ruộng rẫy trù phú

Sông Mao cũng là nơi Đại Tá Vòng A Sáng đưa tiểu đoàn 6 Nùng vào hợp chung lại với các tiểu đoàn 32, 67, 71, 72 và 75 thành sư đoàn 6 Dã Chiến (1/8/1956). Sư đoàn 6 Dã Chiến có một thời gian ngắn mang tên sư đoàn 41 Dã Chiến. Ngày 1/11/1955, sư đoàn 41 Dã Chiến đổi tên thành Sư Đoàn 3 Dã Chiến, bộ tư lệnh lúc đầu đóng tại Tấn Mài, trung tâm huấn luyện quân sĩ trải dài dọc theo bờ khu quân sự của đường Tự Do (Thống Nhất bây giờ) với tụ điểm quan trọng nhất nằm ngay ngã 3 hai đường chính của thị trấn Sông Mao: Tự Do-Thống Nhất (đường Nguyễn Văn Trỗi bây giờ). Những người Sông Mao sinh vào khoảng 1954 trở về trước có lẽ còn trong tiềm thức văng vẳng ban ngày tiếng kèn thúc quân vang vang rộn ràng; ban đêm tiếng gõ mõ cốc cốc đều đều, lâu lâu pha lẫn một tiếng khánh từ Quan Âm Miễu vọng lên khắp xóm làng Sông Mao yên tĩnh thời đó.

Năm 1966, Ông được bầu làm Hội Trưởng Hội Thượng Du Bắc Việt Tương Tế. Năm 1967, Ông đắc cử Thượng Nghị Viện Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hoà, được bầu giữ chức Chủ Tịch Khối Đoàn Kết Dân Tộc Thiểu Số tại Thượng Nghị Viện. Ở cương vị dân cử này Ông Vòng A Sáng đã đấu tranh giành được nhiều quyền lợi cho đồng bào thiểu số miền Nam lẫn Thượng Du Bắc Việt di cư, nổi bật nhất là về mặt giáo dục và đào tạo. Nhiều sĩ quan, sinh viên đại học các ngành, học sinh Nùng đã được hưởng quyền ưu tiên do quy chế dành cho đồng bào thiểu số. Nhiều đứa trẻ ngơ ngác của những ngày đầu ở Sông Mao, những em học sinh các trường Việt-Nông, Dục Anh, Sông Mao A, Sông Mao B, Đa Minh (Hải Ninh sau này) đã trở thành những sĩ quan QLVNCH

Ông qua đời ngày 2/5/1975 khi cùng gia đình chạy loạn trên chiếc tàu Trường Sơn và thuỷ táng trên biển cả.

Ông Vòng A Sáng lấy vợ họ Liêu, vốn người huyện Bình Liêu, sinh được 11 người con: 8 nam, 3 nữ.

Hoàng Phúc Thịnh (Vòng A Sáng) tiên sinh đã trọn đời vì dân, công đức của Ông đối với người Nùng rất lớn. Ông đã viết lên trang sử oai hùng hiển hách của dân tộc Nùng từ thời Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh đến khi vào Sông Mao.

ps: Nùng( khu tự trị Nùng) ở trong bài này không phải là dt Nùng ngoài Bắc hiện nay. Cám ơn bạn fb Vòng Cá Phừng đã góp bài